TRÀ CUNG ĐÌNH: Trà Thảo mộc dưỡng sinh là dạng Phương trà bao gồm một hay nhiều loại thảo dược bào chế và sử dụng giống như trà uống hàng ngày.
Dịch vụ thuyết minh tự động (Audio guide) là ứng dụng công nghệ điện tử hỗ trợ tự động hóa việc thuyết minh cho khách tham quan, nhất là khách lẻ quốc tế và khách sử dụng ngôn ngữ hiếm.
Những hình ảnh của kinh thành thời Nguyễn được hiện ra đầy đủ, rõ nét sinh động cùng với những hoạt động, nghi thức hàng ngày trong hoàng cung hàng trăm năm trước.
Bên trong Hoàng cung Huế có tổ chức chụp ảnh lưu niệm cho du khách tham quan dưới trang phục thái thượng hoàng, vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử và cung phi.
Để tạo điều kiện cho du khách có cơ hội tham quan khu vực xung quanh Đại Nội và tất cả các điểm du lịch bên trong Đại Nội mà không mất nhiều thời gian.
Du khách có thể liên hệ trực tiếp để đăng ký chương trình tham quan có hướng dẫn đi cùng, du khách có thể liên hệ hướng dẫn ngay tại các điểm di tích.
· Tính quy cũ
“Mười bản ngự” được diễn tấu bằng dàn Tiểu nhạc, và từ xưa dàn Tiểu nhạc này thường được gọi là “Phường Bát âm”. Đây là cách gọi dựa trên cấu trúc của nhạc cụ và âm sắc của chúng, gồm: Bào, Thổ, Cách, Mộc, Thạch. Kim, Ty, Trúc.
- Bào (Vỏ): Nhạc khí làm bằng vỏ quả bầu (đàn bầu, đàn tính)
- Thổ (Đất): Huân, trì (một loại âm nhạc cụ làm bằng đất nung)
- Cách (Da): Trống bản
- Mộc (Gỗ): Chúc, phách một.
- Thạch (Đá): Khánh lớn, khánh nhỏ
- Kim (Sắt): Tam âm la, Biên chung
- Ty (Tơ): Đàn Nguyệt, đàn Nhị, đàn Tam, đàn Tỳ bà
- Trúc (Tre): Tiêu (Sáo dọc), Trì (Sáo ngang), Địch
- Tám chất liệu này chịu sự vận động của thuyết âm dương: Theo đó, Dương gồm có: Bào, Cách, Thạch, Trúc; Âm gồm có: Thổ, Mộc, Kim, Trúc. Khi được chế tác thành nhạc cụ, chúng được sắp xếp theo thứ tự âm dương luân hồi.
Khi diễn tấu, trống bản phải thực hiện đầy đủ về “nhịp”, “phách”, “tốc độ” không được tự tiện kết thúc bài mà phải dựa vào kết cấu của câu nhạc. Như vậy, bài bản khi diễn tấu của trống bản phải đúng “Khuôn”.
Khuôn trống: Là khái niệm “bất thành văn” nhưng có tính “quy ước ngầm” giữa các nhạc công khi cùng nhau diễn tấu.
Nghệ nhân và nhạc công Nhà hát NTTT Cung đình Huế trình diễn Mười bản ngự
Dưới đây ví dụ minh họa về khuôn đơn và khuôn kép có trong cấu trúc của các bài bản thuộc “Mười bản ngự”:
Tính quy cũ của “Mười bản ngự” chủ yếu là ứng tấu dựa trên lòng bản (nhạc công đã thuộc) và đồng tấu là chủ yếu, trong phương thức này vai trò của các nhạc khí gõ rất quan trọng, do nó nhấn mạnh những vị trí sắc thái cần thiết, đúng lúc tạo nên tính chất trang nghiêm, nhẹ nhàng, thuần khiết... khi diễn tấu.
Những giá trị nghệ thuật riêng biệt
Thông thường các nghệ nhân dàn Nhã nhạc phải nắm vững “Lòng bản” của “Mười bản ngự” thuộc thời đại của họ (từ khi bắt đầu học đến khi thực hành...) qua đó họ mới có thể ứng tấu khi hòa tấu. Vì vậy, ta thấy sức sống và mức quyến rũ của giai điệu ở mỗi thời mỗi khác. Chính nhờ việc tham gia hòa tấu dàn Tiểu nhạc mà tính lưu loát của giai điệu trong bài bản mỗi nhạc cụ, theo thời gian ngày càng được nâng cao dần. Từ đó, kỹ thuật cá nhân và sức sáng tạo của nghệ nhân mỗi khi ứng tấu (trong hòa tấu) cũng được nâng dần lên.
Qua ứng tấu, mỗi nhạc cụ dưới ngón đàn của nghệ nhân đã hình thành các giai điệu khác nhau, điểm xuyết, tô bồi cho nhau tạo nên một bức tranh âm thanh toàn mỹ... để đạt được như vậy, cần phải đề cập đến mức độ hiểu ý nhau, cùng kết hợp nhau, cũng như tính tự giác khi tham gia dàn nhạc của các nghệ nhân: Phải tuân theo kỷ luật chung, thực hiện những quy ước, nguyên tắc... để dàn nhạc là một tập thể thống nhất.
Nếu mới nghe qua từng giai điệu do mỗi nghệ nhân ứng tấu khi hòa tấu “Mười bản ngự”, có thể chúng ta chưa cảm nhận được sức hấp dẫn của nó. Tuy nhiên, nếu nghe nhiều lần (hoặc nếu có điều kiện nghiên cứu bài bản và giai điệu của “Mười bản ngự”) chúng ta mới cảm nhận rõ sức sống của nó cũng như tâm tư tình cảm của nghệ nhân đã đặt vào đó khi thể hiện nó. Đôi khi các giai điệu đó thật là đơn giản (ít chữ nhạc), nhưng có lúc nó lại được phức tạp hóa với nhiều chữ nhạc nhấn, luyến... để diễn tả những mong muốn và ý đồ của nghệ nhân. Từ đó khi kết hợp lại với nhau các giai điệu của từng nhạc cụ trong từng bài ở “Mười bản ngự” lại bổ khuyết, bồi đắp, hòa lẫn vào nhau và thể hiện đầy đủ toàn cảnh bức tranh của tác phẩm âm nhạc, làm cho người nghe một khi đã biết sẽ khó để quên cảm giác đã được nghe dàn Nhã nhạc thể hiện “Mười bản ngự”.
Các chữ nhạc chính của giai điệu “Lòng bản” có lúc được các nghệ nhân thực hiện sớm hơn, hoặc muộn hơn so với vị trí chính thức của nó. Đây chính là những giá trị nghệ thuật hòa tấu “Mười bản ngự”.
Dưới đây là một số minh họa về những giá trị nghệ thuật đặc trưng riêng biệt của “Mười bản ngự”:
1. Phẩm tiết
2. Nguyên tiêu:
3. Hồ quãng:
4. Liên hoàn:
5. Bình bán:
6. Tây mai:
7. Kim tiền:
8. Xuân phong:
9. Long hổ:
10. Tẩu mã:
Âm nhạc cung đình Việt Nam – Nhã nhạc cung đình triều Nguyễn là bộ phận quan trọng trong kho tàng di sản văn hóa nói chung và âm nhạc truyền thống Việt Nam nói riêng, là hạt nhân của bộ phận âm nhạc bác học cổ điển. Loại hình âm nhạc này đã đạt đến đỉnh cao vào thế kỉ XIX và được thừa nhận, tôn vinh là kiệt tác tiêu biểu cho tài năng sáng tạo, cũng như thể hiện bản sắc của văn hóa Việt Nam. Nhã nhạc vốn được tạo ra để phục vụ cho triều đình, nên nó đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống cung đình. Các qui định về dàn nhạc, cách thức trình tấu, kết cấu từng bài bản cụ thể đều rất chặt chẽ.